Ù tai (Tinnitus) khách quan (objective), phần 2
Ù tai khách quan (objective), ngược lại với ù tai chủ quan (subjective), âm thanh tạo ra trong tai người ngoài có thể nghe được. Hiện tượng này hiếm có nhưng cũng nên biết đến.
Các lý do gây ra như sự co dãn , động kinh rung giật cơ căng và nâng vòm họng (m. tensor và levator veli palatini). Những cơ này có nhiệm vụ như mở vòi nhĩ làm thông tai giữa, nên khi bị động kinh rung giật cơ với tần số 20-400/phút thì sự cảm nhận rung mở của niêm mạc vòi nhĩ vào tai với cảm giác “lạch cạch” liên tục, ngoài ra với cảm giác bít tai và giảm thính lực, kèm với các triệu chứng như đau đầu phần gáy và viêm khớp hàm nhai.
Viêm khớp hàm nhai : vì khớp có liên hệ gần với ống tai ngoài và một phần với tai giữa. Sự viêm, nhai lệch khớp có thể dẫn đến đau khớp, đau vào tai hay rung giật cơ hàm, cơ căng và nâng hàm dẫn đến hiện tượng cảm giác “lạch cạch” trong tai như nói trên. Viêm khớp hàm nhai vì nhai lệch khớp, nhai một bên vì lý do nha khoa, nên đi khám bs chuyên khoa nha chuyên về khớp nhai, nhiều khi chỉ cân điều chỉnh răng cũng đủ hết ù tai.
Động kinh rung giật cơ tai trong m. tensor tympani (cơ căng màng nhĩ) và m. stapedius (cơ bàn đạp) dẫn đến cảm nhận tiếng rung “lạch cạch” hay tiếng như lá cờ “phần phật” trong gió. Những tình trạng này nhiều khi không biết lý do, nhưng nếu dùng liều magne kèm B6 vit. 3x trong ngày có thể giảm các cơn rung cơ.
Các bệnh lý khác ngoài viêm của vòi nhĩ: vòi nhĩ là ông thông khí nối tai giữa và vòm họng. Đóng mở nhiều khi không cảm nhận được trừ khi có bệnh. Ngoài viêm ra sự thông thoáng của vòi nhĩ có thể giảm vì ung thư vòm họng, xạ trị (làm xơ các cơ , giây chằng và niêm mạc vùng này) vùng tmh, các tình trạng giảm cân nhanh
Khi nghe tiếng sóng vỗ hay như nhịp tim đập trong tai thì tiếng ù này được xuất hiện liên hệ hệ tuần hoàn với sự lưu thông của mạch máu, nhất là các mạch máu cảnh cổ, và ở trong cột sống lên não, rối loạn nhịp tim. Thông thường nhịp tim không nghe thấy được, sư thay đổi lưu thông máu của các kết bệnh lý kết nối giữa động mạch và tĩnh mạch, của các nhánh hay của chính động mạch chủ, các bướu mạch máu nằm gần tai hay trong tai giữa.
Các nguyên nhân khác liên quan đến hệ tuần hoàn gồm có: cao hoặc giảm áp huyết nói chung và trong não, thiếu máu, tuyến giáp trạng tăng hoạt. Vì vậy nên nếu không tìm được lý do ù tai vì vùng tai mũi họng bs có thể gởi đi xét nghiệm thêm : nội khoa tim mạch, xét nghiệm máu, tuyến giáp (TSH, T3, T4), Duplex scan động mạch cảnh, điện tim đồ (ECG), nếu cần thiêt chụp MRI não, tai trong, và angio MR não.
Nhiều khi các xét nghiệm trên cũng không cho ra lý do ù tai. Với các kiểm nghiệm mới đây, Jastreboff-neurophysical model, các thay đổi cấu kết, báo tín hiệu giữa các neuron (tế bào thần kinh) với nhiều lý do bị thay đổi phần dưới vỏ não (subcortical ) , nơi kết nối, chuyển đổi tín hiệu từ các giác quan bên ngoài vô với các vùng não khác nhau như bộ nhớ, và hệ thống limbic (kiểm soát các hiện tượng sống cơ bản như cảm xúc và bản năng). Với các thay đổi tiếp nhận và chuyển hóa tín hiệu ở phần dưới não như phần mềm lọc sự cảm nhận bị trục trặc, nên tuy rằng tín hiệu ù tai không giảm nhưng chức năng vô hiệu hóa cảm giác ù tai mất hoặc giảm đi. Vì nó liên quan đến hệ thống limbic (nơi các cảm xúc được kiểm soát) nên cảm nhận ù tai đối với mỗi người mỗi khác. Có người ù tai đo được với cường độ âm thanh cao (60-70dB trở lên) nhưng không thấy khó chịu, nhưng có người ù tai chỉ đo với cường độ âm thanh nhỏ (15-20dB) cũng thấy khó chịu, khó tập trung , và khó ngủ.