Viêm tai
- Viêm tai ông tai ngoài
- Viêm tai giữa: được chia ra làm 4 loại, cấp tính, mãn tính, có thanh dịch và có mủ
|
viêm tai giữa cấp tính |
viêm tai giữa mãn tính |
viêm tai giữa có thanh dịch |
+ |
+ |
viêm tai giữa có mủ |
+ |
+ |
Viêm ống tai ngoài: Khi ống tai ngoài viêm vì nước bẩn vô, hay lấy ráy tai không đúng cách, cách bệnh viêm da như eczema ống tai, nấm tai làm viêm ống tai ngoài gây phù nề, đau, chảy dịch, ngứa, và ù tai. Điều trị vệ sinh tai , đặt thuốc tại chỗ, uống thêm giảm viêm, giảm đau, nếu cần thiết bác sỹ chỉ định thêm kháng sinh. Tránh ngoáy tai, rửa tai, chườm nóng tai.
Viêm tai giữa cấp tính (pic. 1):
Các triệu chứng có thể nghi viêm tai giữa (không cần phải có các triệu chứng cùng một lúc): đau tai, nhói vô tai, ù tai, cảm giác đầy tai, giảm thính lực tai đang viêm, chảy dịch tai, chóng mặt, buồn nôn, sốt.
Viêm tai giữa cấp có thanh dịch khi giảm sự thông thoáng của vòi nhĩ khi viêm, phù nề. Lúc do vòi nhĩ không thực hiện được chức năng thông thoáng, cân chỉnh áp suất tai giữa dẫn đến áp suất tai giữa giảm làm âm lực là sức hút dịch từ trong thành mạch và niêm mạc tai giữa ra ổ tai giữa dẫn sự xuất hiện thanh dịch.
Lý do dẫn đến viêm, phù nề ống nhĩ, hoặc phần thông với mũi của vòi nhĩ bị cản trở : viêm siêu vi, dị ứng không điều trị, các chuyên máy bay thay đổi áp xuất nhanh trong tai giữa.
Điều trị: khám coi lý do, đa phần nếu chỉ vì viêm siêu vi thì chỉ cần dùng các thủ thuật tái tạo áp suất trung bình cho tai giữa là điều cần thiết (thuốc nhỏ mũi co mạch, áp dụng kỹ thuật thở Valsalva, hoặc bịt mũi miệng lại và nuốt). Tránh bay hoặc lặn khi viêm đường hô hấp trên, hoặc trước trong và sau đó nên dùng thuốc nhỏ mũi co mạch (không quá 10-14 ngày, mỗi ngày 3-4 lần 1-2 nhát xịt). Có thể được kèm theo thuốc antihistamin (dùng trong dị ứng), thuốc giảm đau/giảm viêm.
Viêm tai giữa cấp có mủ: khi viêm tai giữa cấp bị vi khuẩn xâm nhập, đa phần không chỉ đơn thuần là vòi nhĩ viêm tắc, mà vi khuẩn trong vùng mũi họng xâm nhập vào tai giữa qua vòi nhĩ. Các vi khuẩn này đa phần là các loại dòng Staphylococcus, Streptococcus, Haemophilus. Đa phần các triệu chứng như viêm tai giữa cấp thanh dịch, nhưng kèm theo sốt cao hay chỉ tăng nhiệt cơ thể, mệt mỏi hơn. Đau tai hơn khi chỉ có thanh dich vì dịch mủ trong tai giữa bài tiết nhiều và đẩy căng màng nhĩ ra. Cách chữa trị ngoài những thuốc như dùng trong viêm tai giữa cấp có thanh dịch có thể kèm theo thuốc kháng sinh, hoặc chích màng nhĩ cho dịch mủ chảy ra. Để dịch mủ tự chảy ra (màng nhỉ tự thủng vì căng và rách phần mỏng) hay chích nên hơn. Nhiều khi sau vài lần viêm tai giữa nhiều lần, hoặc sự bài tiết mủ trong tai giữa nhanh nên khi bệnh (đa phần trẻ em) khi đến bs là màng nhĩ đã tự thủng và dịch chảy ra. Chích chọc màng nhĩ thoát mủ cũng tùy trường hợp mà cân nhắc, khi bệnh nhân đau, hiện tượng căng màng nhĩ khó giải đáp được bằng thuốc, hoặc chữa lâu ngày, có thay kháng sinh nhưng bệnh không thuyên giảm hoặc tệ đi thì nên chích chọc để giảm áp lực gây đau và cấy mủ làm phát đồ kháng sinh. Màng nhĩ tự rách lành xấu hơn khi được chọc (pic.2.). Màng nhĩ được chọc 95% sau đó tầm sau vài ngày tự lành.
Bệnh viêm tai giữa cấp có mủ có những tiến triển xấu như viêm xương chũm, viêm tai trong (chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, ngoài giảm thính lực dẫn truyền còn có giảm thính lực thần kinh), viêm màng não, viêm não, viêm shock nhiễm khuẩn (sepsis). Đa phần thời đại này vì có các kháng sinh, dùng đúng lúc và đúng liều giảm rất nhiều tiến triển nặng , đa phần chỉ có ở những bệnh nhân hệ miễn dịch kém, các trẻ nhỏ chưa hoàn thiện hệ miễn dịch, hoặc để lâu ngày không phát hiện, hoặc dùng không đúng phát đồ kháng sinh.
Viêm tai giữa mãn tính : mãn tính khi sự viêm tai giữa được lặp đi lặp lại trong thời gian ngắn hay không thuyên giảm sau vài tháng điều trị. Những viêm tai mãn tính này đa phần được khuyến cáo mổ tai.
Viêm tai giữa mãn tính có thanh dịch: lý do gây ra thường là sự giảm hoạt động, giảm thông của vòi nhĩ một phần vì cấu trúc tai mũi, góc vòi nhĩ chạy về tai ở tuổi sơ sinh và trẻ nhỏ không dốc như khi lớn lên, các chức năng lông vòi nhĩ chưa hoàn thiện hoặc giảm nên các dịch, vi khuẩn dễ vào tai giữa gây viêm, có các bệnh bẩm sinh giảm hoạt động của các vi lông trong hệ thống hô hấp nên dễ làm viêm các đường hô hấp trên như bệnh u xơ nang (cystic fibrosis), các lý do gây tắc, phù nề vòi nhĩ nữa là viêm amidan mũi , dị ứng sữa bò và uống sữa bò nhiều, trào ngược dịch vị dạ dày, xạ trị vùng đầu mặt cổ, ung thư vòm họng.
Vì các lý do trên nên ở trẻ nhỏ nếu viêm tai giữa thường xuyên được đề nghị nạo VA, tránh uống sữa bò, khám về trào ngược dịch vị dạ dày, và nên cho nằm hơi cao phần đầu lên. Ở người lớn bắt đầu viêm tai giữa mãn tính có thanh dịch nên luôn được chỉ định nội soi vòm họng, kiểm soát trào ngược dịch dị dạ dày và cũng kiêng sữa bò.
Chữa trị ngoài tìm lý do ra và chữa lý do gây nên được khuyến cáo đặt ống thông (pic.3). Sau thời gian nếu áp xuất trong tai tự bình thường hóa lại thì áp lực trong tai giữa có thể đẩy ông thông ra sau vài tháng.
Viêm tai giữa mãn tính có mủ: có thể chia ra làm hai loại, một bên là thủng màng nhĩ và lâu lâu qua vết thủng đó tai giữa tái viêm và chảy dịch mủ (mesotympanic chronical otitis), đa phần ở người lớn. Loại thứ hai là vì nhiều nguyên cớ mà lớp bì phần ngoài cùng của màng nhĩ bị cuốn , hút vào phía tai giữa tạo ra một túi dị nhập biểu bì (cholesteatoma), và lớp biểu bì của túi đó không thoát ra được mà cứ đầy bên trong căng túi lên làm tổn thương các mô, và xương tai giữa. Nếu túi hình thành từ ngoài vô trong, dịch vào tai khó thoát ra và vi khuẩn dễ xâm nhập làm viêm túi cholesteatoma đó gây chảy dịch mủ tai. Nếu túi hình thành từ trong sẵn (bẩm sinh, hoặc lúc thủ thuật trên màng nhĩ bác sĩ cũng có thể vô tình đặt mô biểu bì vô tai giữa) thì chỉ soi tai mới có thể thấy chứ không chảy dịch vì màng nhĩ lúc đó không có tổn thương. Loại thứ hai này có cả ở trẻ em và người lớn. Viêm tai giữa mãn tính nên được mổ, nhất là túi dị nhập biểu bì vì ngoài khả năng tổn thương xương tai giữa, gây điếc dẫn truyền, nó có thể lan vào các phần lân cận như ăn vào xương sọ chèn vào não, vào tai trong làm tổn thương hệ cân bằng tai trong gây chóng mặt, và tổn thương ốc tai trong dẫn đến điếc thần kinh. (Pic.4)
Điều trị viêm tai giữa mãn tính vì thủng nhĩ là vá nhĩ, có những phần dễ thấy và đạt tới như nửa phần sau của màng nhĩ có thể vá nội soi. Những phần thủng nhĩ ở hai nửa trước hoặc liên quan đến phần chùng của màng nhĩ thì có thể mổ vá theo rạch sau tai kiểu thông thường. Mổ lấy cholesteatome thường hai bước cách nhau tầm 1 năm. Cũng tùy chỗ hình thành của túi biểu bì , nếu nhỏ và không lan rộng có thể mổ nội soi, nếu lan to ra sau xương chũm hay vào tai trong nhiều khi cần rạch mổ sau tai kiểu thông thường để vệ sinh ổ mổ kỹ hơn, vì để sót ít mô biểu bì có thể tái bệnh lại. Vì bệnh có thể tái hình lại, nên sau một năm có thể theo giõi bệnh qua chụp MRI tai giữa, cần thiết thì tái mổ. Cũng có lúc bệnh lý quá nhỏ hoặc rất tùy chất lượng, góc chụp để thấy sự tái phát bệnh trên MRI nên tùy vào tình trạng bệnh lúc đầu bác sĩ có thể khuyến khích mở tai ra kiểm tra lại cho dù trên MRI ko thấy.
Bài trích và dịch một phần từ https://enthouse.hu/tevekenysegek/betegsegekrolreszletesebben/